Biến đổi khí hậu uy hiếp ĐBSCL
Dự báo đến năm 2030, nếu không có giải pháp ứng phó quyết liệt, biến đổi khí hậu sẽ gây thiệt hại cho ĐBSCL khoảng 17 tỉ USD trong nông nghiệp do lũ lụt và ngập úng
Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học – Công nghệ và Môi trường của Quốc hội (QH) Phan Xuân Dũng vừa thay mặt Ủy ban Thường vụ QH công bố báo cáo kết quả giám sát tối cao việc thực hiện chính sách, pháp luật về phòng, chống biến đổi khí hậu (BĐKH) ở ĐBSCL.
Khoảng 45% diện tích sẽ bị nhiễm mặn
Theo đó, đoàn đã giám sát thực tế và làm việc với UBND các tỉnh, thành phố của vùng ĐBSCL như: Long An, Tiền Giang, Vĩnh Long, Cần Thơ, An Giang, Kiên Giang, Hậu Giang, Đồng Tháp, Trà Vinh, Bến Tre, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Cà Mau.
Ông Phan Xuân Dũng cho biết Việt Nam là 1 trong 5 quốc gia chịu tác động lớn nhất của BĐKH. Trong 2 thập kỷ qua, ước tính mỗi năm, Việt Nam đã thiệt hại khoảng 1,5% GDP do các thảm họa thiên nhiên. “Dự báo đến năm 2030, nếu không có giải pháp ứng phó quyết liệt, khoảng 45% diện tích của ĐBSCL sẽ bị nhiễm mặn cục bộ và gây thiệt hại khoảng 17 tỉ USD trong nông nghiệp do lũ lụt và ngập úng” – ông Dũng lo ngại.
Báo cáo giám sát nêu rõ BĐKH và nước biển dâng sẽ tác động đến toàn bộ hệ sinh thái vốn rất nhạy cảm của 13 tỉnh, thành ĐBSCL. “Xu thế biến đổi khí hậu và thiên tai ở ĐBSCL trong 3 thập kỷ tới sẽ diễn biến bất thường. Nhiều vùng bảo tồn đất ngập nước như Tràm Chim, U Minh Thượng, Láng Sen, Trà Sư, Hà Tiên, Vồ Dơi, Bãi Bồi, Đất Mũi, Lung Ngọc Hoàng sẽ bị đe dọa” – báo cáo nhấn mạnh.
ĐBSCL có nguy cơ bị ảnh hưởng nặng nề nhất của nước biển dâng, diện tích bị xâm nhập mặn như ở vùng Tứ giác Long Xuyên, Đồng Tháp Mười, Bán đảo Cà Mau sẽ tăng. Tình trạng ngập lụt ở các tỉnh Kiên Giang, Hậu Giang thời gian qua có những biểu hiện bất thường. “Lũ thượng nguồn chưa về mà vùng trũng Phụng Hiệp đã ngập nặng. Nước như chui từ dưới đất lên, tỉnh Hậu Giang ít bão nhưng lốc xoáy năm nào cũng có và mỗi năm một mạnh hơn” – ông Phan Xuân Dũng cảnh báo.
Tăng sức ép dịch bệnh
Do BĐKH, diện tích đất canh tác nông nghiệp và nuôi trồng thủy sản sẽ bị thu hẹp, năng suất và sản lượng sẽ suy giảm ở vùng Tứ giác Long Xuyên, Hà Tiên, Đồng Tháp Mười, khu vực giữa sông Tiền và sông Hậu. Tài nguyên rừng, đất, nước, sinh vật hoang dã, khoáng sản (than bùn, cát, đá xây dựng,…) sẽ bị xâm lấn và hủy hoại.
BĐKH còn làm cho nền nhiệt độ trung bình tăng, ảnh hưởng đến các hệ sinh thái tự nhiên, cây trồng, vật nuôi, làm tăng khả năng phát triển sâu bệnh, gia tăng sức ép lên con người. Nhiệt độ cao nhất trung bình trong mùa khô vùng ĐBSCL sẽ tăng từ 33-35°C lên 35-37°C.
Qua giám sát cho thấy BĐKH và nước biển dâng sẽ tác động phức tạp đến ĐBSCL, như bị ảnh hưởng khác nhau giữa các địa phương. Ngoài trực tiếp còn có những tác động gián tiếp uy hiếp ĐBSCL, như các đập thủy điện, công trình chuyển nước sông Mê Kông cho những vùng khô hạn, sự hình thành các KCN, khu dân cư dọc theo sông Mê Kông sẽ làm cho dòng chảy trở nên bất thường, mùa khô ít nước, dễ ngập úng trong mùa mưa…
Để đối phó với tình hình BĐKH, công tác ứng phó đã được đặc biệt quan tâm với hàng loạt chương trình, dự án, với kinh phí hàng chục ngàn tỉ đồng và hàng trăm triệu USD từ ngân sách và tài trợ quốc tế. Nhiều mô hình ứng phó với BĐKH triển khai tại vùng ĐBSCL bước đầu đã đem lại hiệu quả, như canh tác lúa theo phương pháp ướt – khô luân phiên, GAP…
Tuy nhiên, qua khảo sát, phân tích và đánh giá, đoàn giám sát cho rằng việc lồng ghép kế hoạch, chiến lược ứng phó với BĐKH vào các chương trình, dự án, kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội; liên kết vùng, liên kết ngành ở ĐBSCL còn yếu. Đặc biệt, nguồn lực cho ứng phó còn rất hạn chế, phân tán. Việc cắt giảm vốn Chương trình mục tiêu quốc gia ứng phó với BĐKH năm 2014 dẫn đến tình trạng nhiều dự án đang triển khai nhưng không được bố trí vốn tiếp đã gây lãng phí lớn.
Từ kết quả giám sát, Ủy ban Thường vụ QH đề nghị rà soát tổng thể, bổ sung và hoàn thiện hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật về ứng phó với BĐKH. Trong đó, bổ sung và hoàn thiện cơ chế, chính sách ưu đãi về thuế, tín dụng, đất đai nhằm thu hút đầu tư từ tư nhân đối với các dự án ứng phó với BĐKH; tăng cường kết hợp liên ngành, liên vùng trong các quy hoạch, kế hoạch ứng phó với BĐKH; đẩy mạnh ứng dụng kết quả nghiên cứu khoa học, đào tạo, tập huấn về BĐKH…
Nguồn NLĐ
0 Bình luận
Hãy là người đầu tiên gửi bình luận.