Có bà má anh hùng với hai con nhà báo liệt sĩ
Hai anh em nhà báo Bùi Văn Thưởng, Bùi Văn Tấn
Ở đất Tiền Giang, có một bà má anh hùng, cầm súng đánh Pháp, đuổi Mỹ, dìu dắt hai con trai trở thành nhà báo – chiến sĩ cách mạng từ những năm 1960. Rồi cũng chính người má chỉ huy ấy đứt ruột, nát gan lần lượt chôn cất hai con khi ngã xuống giữa chiến trường khốc liệt. Người ấy là má Tám Nghiệp (Đoàn Thị Nghiệp), Tỉnh ủy viên, Tỉnh đội phó tỉnh Mỹ Tho (nay là Tiền Giang).
Có một bà má Tiền Giang như thế
Má Tám Nghiệp sinh năm 1925 trong một gia đình nông dân nghèo ở làng Hội Cư, huyện Cái Bè, Tiền Giang. Ông nội của má là nghĩa quân của thủ lĩnh Đoàn Trưng (Đoàn Túc Trưng) đã nổi dậy chống vua Tự Đức xây “Vạn niên thành” xảy ra ngày 10-9-1866 tại kinh đô Huế. Cuộc binh biến loạn “Chày vôi” nhanh chóng bị dập tắt và tàn sát đẫm máu.
Do đó, họ Đoàn phải chạy vào ẩn cư tận Đồng Tháp Mười. Người cha của má cũng theo Nguyễn Trung Trực, Trương Định, Thủ Khoa Huân mài gươm chống Pháp. Ngày 23-9-1945 Nam Bộ kháng chiến, ngoài 20 tuổi, má Tám Nghiệp theo hai anh Đoàn Văn Lệ, Đoàn Hữu Huynh gia nhập bộ đội kháng Pháp.
Tháng 12-1945, một binh đoàn số 3 lính Lê Dương đánh huyện Cái Bè, lúc này Tám Nghiệp làm Bí thư xã Đoàn thanh niên cứu quốc, được huyện phân công phối hợp với Chi đội 17 Mỹ Tho cản bước tiến của giặc trên Quốc lộ 4.
Giữa trận chiến đánh quân thù không ai ngờ chính là cuộc định ước của duyên số. Trong lúc chuẩn bị chống càn, anh chiến sĩ vệ quốc đoàn Bùi Văn Thô được giao nhiệm vụ huấn luyện cho lực lượng đoàn thanh niên cách sử dụng súng “mút-cô-tông” và cách gài mìn, ném lựu đạn…
Cô bí thư xã đoàn Tám Nghiệp tròn xoe hai mắt cầm súng ngắm nghía và tim đập thình thịch mỗi lần “cán bộ” cầm tay tận tình hướng dẫn. Còn anh bộ đội nhút nhát, hiền như cái tên Thô của anh lúng túng, vụng về khi gặp ánh mắt sắc sảo của cô bí thư xã đoàn nhìn như hớp hồn.
Bí thư xã đoàn Tám Nghiệp đâu ngờ, sau lần tập huấn chống càn đó, hai anh chị đã nên duyên vợ chồng. Anh Bùi Văn Thô, sinh năm 1924 quê ở miệt vườn Bình Phú, Cai Lậy.
Hai anh chị cưới nhau vào “năm toàn quốc kháng chiến” 1946, Tám Nghiệp theo chồng về Bình Phú sinh sống. Cuối năm 1947, vợ chồng Tám Nghiệp sinh anh Bùi Văn Thưởng và tiếp đến năm 1950 anh Bùi Văn Tấn chào đời trong căn cứ cách mạng Mỹ Phước, là nơi đặt trụ sở cơ quan của Xứ ủy Nam Bộ, Ủy ban kháng chiến Nam Bộ, sau này là Bộ Tư lệnh quân khu 8 cũ.
Anh hùng Đoàn Thị Nghiệp. |
Sau hiệp định Giơ-ne-vơ, Tám Nghiệp ra bến sông tiễn chồng đi tập kết. Chôn chặt nỗi buồn trong lòng, má dắt hai con nhỏ về Đồng Tháp Mười sinh sống với bàn máy may, nuôi hai con ăn học, vừa vận động bà con đấu tranh đòi chấp hành Hiệp định, tổ chức tổng tuyển cử toàn quốc thống nhất nước nhà.
Chính quyền Mỹ- Diệm tiến hành hàng loạt các chiến dịch “tố cộng”, “diệt cộng”, “ly khai cách mạng”, lê máy chém khắp miền Nam. Trước tình hình đó, Tỉnh ủy Mỹ Tho chỉ đạo cho các cơ sở rút lui vào hoạt động bí mật, chuẩn bị lực lượng kháng chiến lâu dài trong khu Đồng Tháp Mười. Đó là những tháng ngày cơ cực, nguy hiểm không thể nào quên trong đời hoạt động cách mạng của má.
Nhiều tháng, Tám Nghiệp không đủ gạo ăn phải ăn củ chụp, củ bình bang thay cơm, dành dụm suất gạo ít ỏi cho hai con đang tuổi ăn, tuổi lớn. Gian khổ vô vàn nhưng lòng người mẹ cách mạng luôn tràn trề niềm lạc quan, hạnh phúc.
Phong trào Đồng Khởi bùng nỗ được ít lâu, thì ngày 20-12-1960, cơ quan Thông tấn xã Giải phóng ở Mỹ Tho ra đời do đồng chí Hồ Văn Thạnh phụ trách tiểu ban báo chí tuyên truyền phát hành trong nhân dân và bộ đội vùng giải phóng, kêu gọi tinh thần đấu tranh.
Cho đến sau chiến thắng Ấp Bắc lừng lẫy, để cổ vũ và phát động quân dân hưởng ứng phong trào thi đua với Ấp Bắc giết giặc lập công, tờ báo “Giải phóng” được đổi tên thành tờ “Ấp Bắc”. Ngày nay trở thành cơ quan ngôn luận chính thống của Đảng bộ và nhân dân Tiền Giang.
Năm 1959, do yêu cầu của tổ chức, má được điều sang An Giang công tác cho đến năm 1967 về Mỹ Tho và công tác tại mặt trận vành đai diệt Mỹ xã Bình Đức. Tại đây, má đã mưu trí, dũng cảm lập kế hoạch bắt sống được một sĩ quan Mỹ và tham gia nhiều trận đánh vào căn cứ Đồng Tâm do Sư đoàn 9 Mỹ chiếm đóng. Năm 1968, má được phân công phụ trách mảng 4 xã Cai Lậy Bắc.
Đầu năm 1972, bọn địch huy động hai Tiểu đoàn thuộc Sư đoàn 7 mở trận càn quy mô, có sự yểm trợ của trực thăng, máy bay và pháo binh đánh phá ác liệt vào cơ quan tỉnh và huyện đội Cai lậy Bắc. Tình thế rất ngặt nghèo, do các đơn vị chiến đấu đã điều đi tác chiến ở chiến trường khác, nên cơ quan Tỉnh đội chỉ còn lại 5 chiến sĩ và 8 du kích xã phải đương đầu với hai tiểu đoàn cực mạnh về hỏa lực.
Tỉnh đội phó Tám Nghiệp bình tĩnh chỉ huy nhanh chóng tổ chức chiến đấu bảo vệ cơ quan tỉnh đội với quyết tâm, dù có phải hy sinh đến người cuối cùng. Địch cậy vào quân đông, liên tục mở nhiều đợt tập kích, đột nhập nhưng đều bị đánh bật ra. Chúng không bao giờ ngờ được chỉ có 13 chiến sĩ gang thép đang chiến đấu.
Cuộc chiến ác liệt kéo dài đến khoảng 12 giờ trưa ngày 6 tháng 4 năm 1972, Tám Nghiệp bị thương nặng và súng hết đạn má đã bị sa vào tay địch. Bọn địch biết má giữ chức vụ quan trọng của Tỉnh đội Mỹ Tho, nên chúng vừa mua chuộc, dụ dỗ, vừa tra tấn dã man nhằm buộc phải đầu hàng nhưng đã không chịu khuất phục và anh dũng hy sinh lúc 22 giờ ngày 6 tháng 4 năm 1972.
Ngày 6-11-1978, Nhà nước đã truy tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang Nhân dân cho Tỉnh đội Phó tỉnh Mỹ Tho Đoàn Thị Nghiệp và năm 1995 Nhà nước truy tặng danh hiệu Bà Mẹ Việt Nam anh hùng.
Chuyện về hai người con nhà báo liệt sĩ
Câu chuyện về hai người con liệt sĩ, nhà báo của má Tám Nghiệp là một thí dụ điển hình trở thành tấm gương cho nhiều thế hệ báo chí Việt Nam và tỉnh Tiền Giang. Vào năm 1960, anh Bùi Văn Thưởng vừa học xong chương trình Đệ tứ (tương đương lớp 9 bậc học phổ thông ngày nay), má Tám Nghiệp đã tìm gặp ông Tám Thạnh, phụ trách tiểu ban tuyên truyền của báo Giải Phóng xin cho con trai làm báo.
Thế là ở tuổi 14 cậu bé Bùi Văn Thưởng làm “chú nhà báo Giải phóng” chuyên quay máy Ra-gô-nô, phát điện truyền tin tức, bài vở về Tổng xã Giải phóng Miền.
Cậu còn được giao nhiệm vụ chép tin đọc chậm từ Đài Tiếng nói Việt Nam, Đài Tiếng nói Giải phóng chuyển cho lãnh đạo và các cơ quan Tỉnh ủy, Mặt trận dân tộc Giải phóng Mỹ Tho. Vừa làm vừa học, học ở những cô chú đi trước, chẳng bao lâu anh Bùi Văn Thưởng đã hoàn toàn tự tin viết tin, bài, cung cấp ảnh cho các tờ báo “Tranh đấu”, “Tin tức Mỹ Tho”, “Giải phóng”, “Ấp Bắc” phục vụ cho bộ đội nhân dân vùng giải phóng.
Hơn ba năm sau (1963), theo lời khuyên của má Tám Nghiệp, cậu em trai là Bùi Văn Tấn cũng vào cứ xin vào công tác báo chí ở Phân xã Mỹ Tho. Điều kỳ lạ của hai anh em là cả hai học xong đệ tứ, đúng 13 tuổi đều thoát ly làm báo chí cách mạng tại quê hương.
Phân xã Mỹ Tho hoạt động cận kề bên nách địch. Nhà báo Thưởng vóc dáng nhỏ con nhưng lanh lẹ và gan lì thì không ai bằng. Lúc tác nghiệp hay đi công tác bao giờ quanh thắt lưng cũng lèn chặt lựu đạn, hễ đụng giặc là chủ động đánh, mở đường cho Phân xã rút an toàn.
Trong túi đựng mìn Cờ-lây-mo (Claymore) của Bùi Văn Thưởng bao giờ cũng có tấm vải nhựa phòng bị. Mỗi khi đột ngột gặp phải trận càn, lập tức Thưởng dùng tấm vải nhựa bọc kín máy phát sóng, máy Ra-gô-nô giấu dưới nước bảo đảm an toàn khi địch rút lui tìm vớt lên mang ra sử dụng.
Phân xã thiếu thiết bị, phụ kiện thay thế phương tiện phát điện, phát sóng, Thưởng nài nỉ chú Tám Thạnh cho theo các đơn vị Giải phóng tập kích căn cứ Mỹ quanh lộ 4, vừa lượm được nhiều tin chiến thắng vừa thu lắm “chiến lợi phẩm” về điện đài phục vụ công tác.
Có trận, Thưởng mang về máy phát tin 15W, bình ắc quy điện, máy ảnh, phim chụp ảnh của Mỹ khiến cả cơ quan vui mừng khôn xiết. Trong trận Ấp Bắc, Thưởng theo chân bộ đội, liền có bài tường thuật nóng hổi: “Ấp Bắc, trận đầu đánh thắng chiến thuật Trực thăng vận, thiết xa vận”.
Bài báo được Phân xã Mỹ Tho phát nhanh sau trận thắng càn thắng lợi vang dội. Các Báo Nhân dân, Quân đội nhân dân, Cứu quốc, Thống nhất, Đài Tiếng nói Việt Nam, Đài Phát thanh Giải phóng miền Nam đăng và phát vào ngày 3-1-1963 làm nức lòng quân dân cả nước. Không bao lâu Bộ tư lệnh quân Giải phóng miền, Trung ương cục phát động phong trào “Thi đua Ấp Bắc giết giặc lập công”.
Hậu phương miền Bắc xây nhiều công trình, tăng sản phẩm, năng suất cao, đoàn xe tàu mang tên “Ấp Bắc”. Từ năm 1963 Bùi Văn Tấn thay thế vị trí báo vụ đài CFM truyền tin tức từ Phân xã Mỹ Tho về Tổng xã Giải phóng Miền. Tấn lấy tin tức toàn miền qua chiếc thu thanh bán dẫn hằng ngày, chép tin đọc chậm Đài Tiếng nói Việt Nam cung cấp tình hình chiến sự cho Tỉnh ủy thay anh trai.
Ngoài phiên trực báo vụ phát tin, các anh chú phân công thêm việc gì, Tấn vui vẻ thoăn thắt tay chân như con sóc, làm cả phần việc công vụ cho cơ quan Tuyên huấn Mỹ Tho mang tài liệu, công văn băng qua vành đai pháo chụp, pháo bầy, trực thăng để đến cơ quan Tỉnh đội của má Tám Nghiệp, Tỉnh hội phụ nữ, ban Binh vận.
Nhiều lần một mình Tấn với khẩu súng anh chèo ghe vượt kênh Cái Xáng vào căn cứ Khu ủy Khu 8 an toàn. Cho đến một ngày cuối tháng 3/1967, trên đường đi công tác về Tân Phú, (Cai Lậy) bị lộ, bọn địch dùng trực thăng vây bắt. Nhanh trí, một mình Bùi Văn Tấn tách ra khỏi đoàn công tác đánh lạc hướng địch, anh phóng mình ra giữa trảng cát kéo bọn giặc bám theo.
Cả đoàn cán bộ thoát hiểm an toàn, Bùi Văn Tấn bị trọng thương. Do thiếu thuốc men và phương tiện cứu chữa, lại mất máu nhiều quá nên Tấn trút hơi thở cuối cùng ở trạm xá Hưng Thạnh (nay là huyện Tân Phước, tỉnh Tiền Giang) khi vừa tròn 17 tuổi.
Hai năm sau, vào tháng 6-1969, người anh Bùi Văn Thưởng cũng hy sinh khi anh mở đường máu cứu đồng đội trong trận càn ở Mỹ Đức Tây, Cái Bè khi bước sang tuổi 22.
Miền Nam giải phóng, đất nước thống nhất, Trung tá Bùi Văn Thô, quay về lại mảnh đất quê hương đau đớn chết lặng bên mộ vợ và hai con trai. Ông từng làm Chủ tịch Hội cựu chiến binh Cai Lậy, mỗi khi có khách tới thăm, người cha hai nhà báo liệt sĩ, người chồng nữ liệt sĩ Anh hùng Đoàn Thị Nghiệp lại bùi ngùi giở tờ báo “Ấp Bắc” đăng bài Bùi Văn Thưởng và cuốn sổ phóng viên kỷ vật của anh đã ngả màu.
Ông luôn day dứt nỗi niềm, bởi chiến tranh liên miên, bận đi đánh giặc mải miết nên không có thời gian gần gũi vợ con, chở che cho vợ con. Tất cả đã ra người thiên cổ, tất cả đã hóa thân thành mảnh đất, vườn cây và phù sa sông Tiền.
Nguồn Văn nghệ Tiền Giang
0 Bình luận
Hãy là người đầu tiên gửi bình luận.