Nghề báo và đạo đức
Không cứ gì phải nghề báo mới đặt vấn đề về đạo đức mà bất cứ một nghề nào khác, chuyện đạo đức nghề nghiệp cũng phải được đặt ra, thậm chí phải được đặt lên hàng đầu rồi mới nói đến chuyên môn nghiệp vụ của người hành nghề đó. Vì rằng, không có đạo đức khi hành nghề thì khoảng cách giữa việc hành nghề chính đáng với việc lợi dụng “nghề” để trục lợi hoặc làm những việc bất chính chỉ là tơ tóc. Với nghề báo, do đặc thù của công việc, câu chuyện về đạo đức lại càng được chú trọng và đặt lên hàng đầu.
Một thông tin bị hiểu sai lệch hoặc bị nhà báo làm cho méo mó đi thì hệ quả của nó không chỉ ảnh hưởng đến lợi ích của một cá nhân mà còn gây hệ lụy cho cả một cộng đồng. Ngược lại, một thông tin kịp thời, chính xác và trung thực của nhà báo, với sự lan tỏa của nó sẽ có tác dụng tích cực đến cá nhân, tập thể và đời sống toàn xã hội. Vì vậy, vấn đề đạo đức của nhà báo là câu chuyện luôn được đề cao và coi trọng, nhất là trong thời đại bùng nổ thông tin.
Hằng ngày, các tòa soạn báo, đài thường nhận hàng chục, thậm chí hàng trăm cuộc gọi và tiếp nhận đơn thư của bạn đọc trong và ngoài nước gửi về. Trong số đó, có không ít người từng gõ cửa các cơ quan công quyền những mong tìm được một lời giải đáp thỏa đáng về những bức bách trong cuộc sống nhưng đã thất vọng. Họ buộc phải tìm đến các tòa soạn báo với hy vọng, vụ việc của họ sẽ được công khai. Bởi trong tiềm thức của họ, báo chí có quyền năng thông tin tạo nên sức mạnh công luận khiến các cơ quan chức trách bị sự hối thúc và sức ép đó để xử lí vụ việc. Có thể nói, bạn đọc đã đặt niềm tin của mình vào sự khách quan, trung thực của nhà báo. Trong suy nghĩ của người dân, nhà báo luôn đứng về phía của người yếm thế, luôn “đứng về phía nước mắt”, đứng về phía những người bị oan khuất, những người luôn bị chịu thiệt trong cuộc mưu sinh đầy nhọc nhằn. Đó chính là lí do để người dân đến với báo chí như một sự lựa chọn trong hành trình tìm đến công lý của họ. Một khi người dân đã đặt niềm tin vào nhà báo thì không một lý do gì để các nhà báo phản bội kỳ vọng của họ. Ở khía cạnh này, đạo đức nhà báo không chỉ là việc đi đến tận cùng của nỗi oan khiên để tìm ra lẽ phải, lẽ công bằng cho người bị oan khuất mà cái chính là, bằng ngòi bút của mình, bằng sự trung thực và trách nhiệm của mình, nhà báo phải làm công việc của một bác sĩ phẫu thuật, cắt bỏ vĩnh viễn những khối u có thể trở thành “tiền lệ xấu”, có thể lây nhiễm thói hư cho cả cộng đồng.
Vụ hôi của từ một chiếc xe chở bia bị lật ở Đồng Nai, nếu không có sự vào cuộc và lên án quyết liệt từ các cơ quan báo chí thì chắc chắn sẽ khó có động thái “tử tế” đi nhặt từng tờ bạc trả lại cho chủ nhân của nhiều thanh niên ở Phan Thiết vừa mới xảy ra. Hàng loạt những chiếc xe tải chở hàng bị lật ở Hà Nội, Thanh Hóa, sau “vụ Đồng Nai”, người dân ở những nơi đó không những không “hôi của” như đã từng xảy ra mà còn giúp đỡ tận tình các tài xế để khắc phục hậu quả. Người dân ở những nơi đó đã “vỡ ra” câu chuyện về tình người sau khi báo chí lên án mạnh mẽ hành vi lấy “cướp ngày” ở Đồng Nai. Nếu báo chí xem việc “hôi của” như là chuyện “không phải của mình” mà đứng ngoài cuộc thì hẳn đó sẽ là một tiền lệ xấu, sẽ không có những nghĩa cử rất đáng trân trọng của người dân ở những vụ tai nạn tiếp theo. Đạo đức của nhà báo, trong câu chuyện này chính là góp phần định hướng cho cộng đồng để mỗi người phải sống tốt hơn, có trách nhiệm hơn, phải biết đùm bọc nhau trong cơn hoạn nạn. Đối mặt với cái xấu, cái phi tiến bộ để đấu tranh, hạn chế, triệt tiêu nó, đó cũng là một khía cạnh về đạo đức của nhà báo vậy.
Cả nước hiện có trên 800 tờ báo với đủ các loại hình, kèm theo đó là gần hai vạn nhà báo đang hành nghề, một con số không hề nhỏ đối với một nghề có tính đặc thù như nghề báo và đối với một quốc gia có 90 triệu dân. Sự phát triển nhanh chóng của công nghệ thông tin trong những năm gần đây đã trở thành lực đẩy để các nhà báo “tăng tốc” cho kịp với tốc độ của thông tin thời “số hóa”. Bên cạnh sự chính xác, trung thực trong phản ảnh, thì sự nhanh nhạy, kịp thời cũng là những tiêu chí mà mỗi nhà báo, mỗi tòa soạn báo đang hướng đến. Tuy nhiên, sự “sốt ruột” của một số tờ báo, nhất là báo điện tử trong việc cung cấp thông tin đã khiến không ít những sự kiện bị bóp méo hoặc bị đẩy đi quá xa bản chất của sự kiện. Sự “sốt ruột” này còn bao hàm cả động cơ “câu view”, làm sao đó để hút về mình lượng truy cập nhiều nhất của bạn đọc nhằm khai thác quảng cáo, đó cũng là mặt trái của câu chuyện đạo đức nghề nghiệp. Khi một sự việc “rẻ tiền” được đẩy lên thành chuyện “hot”, tờ báo ấy có thể thu thêm một ít tiền quảng cáo nhờ vào lượng truy cập của người đọc nhưng các chuẩn mực về đạo đức, cái hồn cốt, tinh tuý của thuần phong mỹ tục dân tộc có thể bị bôi bẩn. Không ít tòa báo đưa ra lý lẽ cho việc câu khách rằng phản ảnh chuyện “ghê rợn” như cướp-giết-hiếp hoặc chuyện loạn luân là để lên án cái xấu, nhưng đó chỉ là sự bao biện cho việc câu khách của mình…
Cái làn ranh mong manh của đạo đức người làm báo ở đây là việc nhà báo ấy với vai trò là chủ thể phản ánh đang đặt mình ở đâu trong sự kiện, sự việc đang diễn ra Góc nhìn của anh, tâm thế của anh, tính tư tưởng của anh thế nào khi đứng trước sự kiện, sự việc đó. Tiệm cận càng sát sự thật khách quan là ao ước và là trách nhiệm của người cầm bút. Nhưng trong cuộc đua tranh về thời gian, sự cạnh tranh về thông tin, có những người cầm bút đã chọn việc hóng hớt, xào tin, mua bán tin “tiểu ngạch” và trở thành anh hùng bàn phím bất chấp hậu quả.
Phản ảnh như thế nào, liều lượng ra sao trước một sự việc có tính nhạy cảm, điều đó đòi hỏi lương tâm và trách nhiệm của mỗi nhà báo chứ không hẳn hễ thấy cái xấu là đưa tất tật lên báo mới là người “có nghề”. Chuyện đạo đức của nghề báo nhiều khi không hẳn là câu chuyện quá to tát mà nó nằm ngay trong cái cách nhà báo đưa tin. Cũng sự việc ấy, nhưng sao có nhà báo chuyển đến bạn đọc thông điệp ấm áp nhân văn. Ngược lại có nhà báo khai thác ở góc độ khiến cho bạn đọc hoang mang, lạc lối trong cảm xúc lẫn định hướng. Chuyện “kiều nữ Hải Dương” bắt anh lái tắc xi làm “nô lệ tình dục” là điển hình của việc câu khách. Câu chuyện phòng the bị đẩy đi quá xa, thậm chí còn bịa đặt, thêm thắt “mắm muối” vào để câu chuyện thêm ly kỳ nhưng vô tình, nhà báo đã thiên về chủ nghĩa tự nhiên, tầm thường hoá và vô hình trung khơi gợi những dục vọng thấp hèn với sự suy đồi phản văn hoá. Đó là chưa nói, nó đã bôi nhọ nhân phẩm của người khác. Bây giờ, không ít tờ báo đang lấy chuyện phòng the, trắc ẩn tình yêu, tình dục làm đối tượng phản ánh chính. Cách mạng tình dục ở nhiều nước đã bàn đến cách nay gần cả thế kỉ. Việc giờ các báo chủ đích khai thác tối đa nó với các cung bậc, góc khuất, đầy dục tính…Liệu đó có phải là bước thụt lùi đáng xấu hổ trong lịch sử phát triển của báo chí hiện đại? Từ những trò tiêu khiển bệnh hoạn, đến những quan hệ yêu đương phi nhân tính…Nó có thể mang đến cho bạn đọc một cảm xúc thẩm mĩ giúp họ hướng đến chân thiện mĩ, đến chuẩn của sự văn minh và tiến bộ?… Nếu có một ngày người ta luận tội sự xuống cấp của văn hoá Việt, sự băng hoại các thuần phong mĩ tục, đạo đức truyền thống, thì lúc đó ai dám nói rằng, báo chí, vô can?
Ở một khía cạnh khác, không phải “sự thật” nào cũng đưa tất tật lên mặt báo, nhất là vấn đề có tính nhạy cảm như các vấn đề liên quan đến quan hệ đối ngoại, liên quan đến quốc phòng và an ninh quốc gia. Không ít nhà báo đã trách cứ cơ quan cung cấp thông tin, nhất là các chuyên án đang trong quá trình điều tra mà cứ đòi phải công khai cho báo chí biết. Tuy nhiên, có những lúc, nhà báo chỉ “thấy cây mà không thấy rừng”. Chuyện quốc gia đại sự, chuyện cơ mật an ninh, quốc phòng đâu phải tất tật đều “công khai” được. Cũng vì quá “sốt ruột” với những thông tin có tính “nhạy cảm” ấy nên không ít báo đã “đoán già đoán non”, thậm chí lấy cả tin của những trang mạng của các cá nhân ở bên ngoài không đăng ký, vội vàng đưa lên mặt báo theo lối suy diễn chủ quan kiểu “thầy bói xem voi” để rồi những hậu quả về lợi ích đại cục, cộng đồng, quốc gia bị xâm hại.
Đưa thông tin lên mặt báo có chọn lọc và có liều lượng hoàn toàn khác với chuyện ém nhẹm thông tin. Hiện đang có xu hướng, chuyện tiêu cực ở một số cơ quan công quyền hầu như đang “phủ bóng” lên một số trang báo. Tuy nhiên, vẫn có những chuyện “tày đình” nhưng vẫn không được đưa lên mặt báo. Không được đưa lên mặt báo không phải từ những rào cản của các nhà quản lý mà đôi khi, chuyện giấu nhẹm ấy lại xuất phát từ động cơ của nhà báo nữa. Đây đó đã có sự “mặc cả” giữa nhà báo và đối tượng tiêu cực. Khi đạo đức nghề nghiệp của nhà báo bị đồng tiền lũng đoạn thì việc giấu nhẹm thông tin đã là điều sai trái rồi, thế nhưng, có những “màu đen” tiêu cực lại biến thành sự “trong sáng” đến khó tin. Câu chuyện về đạo đức nghề báo một lần nữa lại đặt lên bàn cân của sự phán xét.
Sẽ có muôn hình vạn trạng về chuyện đạo đức của nghề báo. Trung thực, dũng cảm, dám xông vào chỗ hiểm nguy nhất… đó là những điều cần có của người làm báo. Tuy nhiên, biết khước từ những cám dỗ đầy mê dụ mới là điều để nhà báo đi trọn con đường của nghề nghiệp mà mình đã chọn. Một nhà báo được gọi là “có đạo đức” phải là người đồng hành cùng nhân dân mình, cùng dân tộc và đất nước mình, biết chia sẻ những vui, buồn, sướng, khổ với đồng bào mình trong cuộc trường chinh thoát khỏi đói nghèo, lạc hậu để đến đích ấm no, hạnh phúc.
0 Bình luận
Hãy là người đầu tiên gửi bình luận.