Chùa Phật Đá – một địa chỉ văn hóa
Chùa Phật Đá – Linh Phước Cổ tự hôm nay tuy quy mô không hoành tráng bằng một số ngôi chùa khác, nhưng xưa kia đã từng nổi tiếng khắp một vùng rộng lớn, từng gắn bó với tên làng, tên đất:
Ở đâu, đi đâu, về đâu?
– Chùa Phật Đá.
Bót (đồn) nào – Bót chùa Phật Đá,
Thế là biết nói đến địa danh Bà (Bàu) Bèo.
Chùa Phật Đá được nhiều người biết đến không chỉ vì nguồn gốc ra đời có nhiều bí ẩn mà còn vì bề dày lịch sử của chùa.
Chuyện kể rằng: Vào năm 1772 có ông Lương là một mục đồng lớn tuổi, người ở thôn Bàu Bèo. Một hôm, như thường lệ, ông thả trâu ăn trên cánh đồng hoang, sình lầy rộng lớn. Khi ông cho trâu lội ngang qua Bàu Sọ (nằm giữa Bàu Sấu và Bàu Bèo), bỗng gặp phải 1 tượng đá dài, to lớn đứng thẳng dưới lớp sình lầy.
Quá đỗi ngạc nhiên, ông Lương liền chạy về báo tin cho dân làng biết. Các vị kỳ lão và bà con trong làng vội vã chạy đến cùng nhau đem tượng lên xem thì phát hiện ra đây là một pho tượng Phật bằng đá, có 4 tay: 2 tay trên cầm mặt nhật, mặt nguyệt; 2 tay dưới cầm trái châu và tích tượng. Tượng Phật đứng trên tòa sen, cao khoảng 1,40 m.
Dân làng rất đỗi vui mừng, bàn nhau rước tượng về lập chùa thờ cúng với tên gọi là chùa Phật Đá (chùa thờ tượng Phật bằng đá). Điểm tọa lạc của ngôi chùa này cách chùa hiện tại khoảng 500 m về hướng Tây – Bắc.
Ông Lương tình nguyện hàng đêm đến thắp hương cho Phật và trông nom chùa. Từ đó, giữa vùng hoang vu, vắng lặng hàng đêm vang lên tiếng mõ cầu kinh cùng những hồi chuông ngân dài xua đi màn đêm cô tịch, sưởi ấm phần nào những tâm hồn đau khổ, trống vắng.
Năm 1789 chùa được 1 viên quan tên là Bảo Hộ hỗ trợ xây dựng lại khang trang. Trước sân chùa có 2 trụ đèn cao, vào các ngày lễ vía thắp đèn lên, xa từ 9 – 10 km cũng nhìn thấy. Ông đặt tên cho chùa là “Linh Phước Tự”. Từ đó khách thập phương đến cúng viếng ngày một đông.
Song từ những năm 1860 do không khí chiến tranh xâm lược của thực dân Pháp bao trùm lục tỉnh, vùng Bàu Bèo không còn khách vãng lai, nhà chùa trong cảnh hoang vắng, quạnh hiu. Thừa dịp ấy, bọn trộm cướp các nơi về ẩn náu, bắt trộm trâu về đây cột giấu. Từ đó xuất hiện ca dao rằng:
“Ai đuổi cướp, ai đi lùa
Mất trâu, mất bò về chùa Phật Đá”.
Năm 1886, tượng Phật bị bọn trẻ mục đồng lấy cắp đưa về tận chùa mục đồng ở chợ Bưng. Mãi đến năm 1897 mới tìm ra được, đưa tượng trở về chùa và rước cụ Từ Hòa về hộ trì chùa.
Năm 1917 giặc Pháp cho xáng đào kinh La – Com, chùa phải di dời về chỗ hiện nay, có diện tích là 7 ha, được Hòa thượng Thích Quãng Ân (trụ trì) cho xây ngôi chùa mới có 4 nóc, cao, rộng, khang trang; cho làm khuôn đúc Phật, đúc được tượng Phật Chuẩn Đề 18 tay. Tín đồ, phật tử ngày càng đông. Lúc này chùa được Giáo hội Phật giáo công nhận là “Linh Phước Cổ tự”.
Năm 1927 chùa được trùng tu, xây tường nối dài nhà Tổ, nên thuở ấy có thơ rằng:
“Hiên xòe cánh én chùa năm nóc
Ngói lợp đuôi lân tỏa mấy tòa”.
Xung quanh vườn chùa có những hàng cây sao lâu năm cao ngất, khách thương buôn từ phương xa thường nhìn hàng sao ấy mà biết vùng chùa Phật Đá – Bàu Bèo. Thuở ấy, nhiều bậc anh tài đã đến viếng chùa và để lại một số thi thơ, vịnh phú ca ngợi vẻ đẹp của chùa.
Tiếc rằng, do chiến tranh ly loạn, đến nay chùa chỉ còn lưu giữ được 1 bài thơ của ông cư sĩ Phong Sắc:
“Phước lộc ngao du quá tiểu khê
Am tiền dạ bạc ước di nê
Thiên niên tứ thủ chân Bồ Tát
Pháp tượng thiên thu tợ Chuẩn Đề
Bảo Hộ tích viên sùng tự viện
Từ Hòa kim nhựt thủ đang nghê
Anh linh vạn cổ trường sanh thạch
Hải ngoại trì danh nhậm phẩm đề”.
Tạm dịch:
Qua làng Phước Lộc dạo chơi
Trước chùa đêm cũng thảnh thơi
nhẹ nhàng
Tích xưa Bồ Tát rõ ràng
Bốn Tay tượng giống dung nhan
Chuẩn Đề
Bảo Hộ xưa dựng chùa quê
Từ Hòa thuở ấy lo phần khói nhang
Oai linh Phật Đá vẻ vang
Khắp trong thiên hạ lẫn ngoài
biết danh.
Đến năm 1946, cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp bùng nổ, thực dân Pháp chiếm lại Bàu Bèo. Hưởng ứng Lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh: Kháng chiến toàn dân, toàn diện, trường kỳ, chùa đã mang “đại hồng chung” và tất cả đồ đồng trong chùa hiến cho binh công xưởng chế tạo vũ khí để chống thực dân Pháp bảo vệ đất nước, hiến 200 cây sao to xung quanh chùa để làm cản chặn tàu địch, bảo vệ vùng giải phóng.
Trụ trì chùa tham gia Việt Minh chống thực dân Pháp xâm lược. Ngôi chùa trở thành nơi hội họp và nuôi giấu cán bộ cách mạng. Từ đó chùa Phật Đá cũng bị hư, bị giặc phá bằng thuốc nổ, xe ủi san bằng.
Hòa bình lập lại, năm 1955 Hòa thượng Thích Quảng Ân trở về cùng các đệ tử xây dựng lại chùa. Song không được bao lâu thì chiến tranh lại nổ ra ác liệt. Từ năm 1961 – 1964, chùa phải di tản ra Gò Lũy thuộc xã Nhị Bình, huyện Châu Thành ở nhờ đất ông Bộ Dài. Sau đó về phường 5, TP. Mỹ Tho lập Linh Phước tự (chùa Phật Đá) vào năm 1966.
Lúc này, tại nền chùa cũ thì bị giặc chiếm, đưa xe ủi đất san bằng mồ mả, cây cảnh để đóng bót đánh phá cách mạng. Nhớ lại cảnh tượng này, cố Hòa Thượng Thích Nhuận Sanh, nguyên trụ trì chùa Phật Đá đã không khỏi chạnh lòng viết mấy câu thơ:
“Đất mẹ ngậm ngùi chôn máu xương
Quê cha ân hận cảnh đau thương
Chùa xưa mái ngói tung tan vỡ
Đêm lạnh Phật đài vắng khói hương”.
Sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, thống nhất đất nước, chùa cũ được khôi phục thì tiếc thay năm 1978 pho tượng Phật đá nguyên bản được thờ tại chùa Linh Phước, phường 5 bị đánh cắp.
Năm 1979, chùa được xây dựng lại bằng cây lá thô sơ. Sau đó là tường gạch, mái ngói cấp 4, tượng Phật Đá được phục chế giống nguyên bản.
Đến năm 2006 chùa được khởi công đại trùng tu xây dựng mới toàn bộ, với tổng kinh phí 1,6 tỷ đồng. Ngôi chánh điện được xây dựng khá kiên cố, khang trang, rộng rãi, thoáng mát, với kiến trúc theo lối truyền thống văn hóa cổ Việt Nam và Bắc truyền Phật giáo. Trong ngôi chánh điện được bố trí 2 phần: Chánh điện và hậu tổ theo pháp môn “Tịnh Độ Tông”, thờ 3 vị Phật: Di Đà, Quan Âm, Thế Chí. Năm 2013 chùa được công nhận danh hiệu Cơ sở thờ tự văn hóa.
Phát huy truyền thống tốt đẹp của chùa Phật Đá năm xưa, cố Hòa Thượng Thích Nhuận Sanh, trụ trì chùa từ năm 1979 – 2013 đã không ngừng chăm lo hành đạo và nhập thế giúp đời. Trong việc đạo, ông hết lòng cống hiến cho Phật pháp.
Trong những năm cuối đời, ông đã chạy đua với thời gian, với căn bệnh hiểm nghèo để thực hiện tâm nguyện là hoàn thành việc xây dựng lại ngôi chùa khang trang như hiện nay. Trong việc đời, ông rất quan tâm đến hoạt động từ thiện.
Những năm lũ lụt lớn, ông vận động phật tử nhiều nơi cứu tế, cứu trợ cho đồng bào trong huyện từ 20 – 30 triệu đồng. Bình thường hàng năm cứu tế hàng chục triệu đồng. Ông là đại biểu Hội đồng nhân dân huyện các khóa I, II và III.
Với chiều dài lịch sử và vị trí của chùa hiện nay, chùa Phật Đá – Linh Phước Cổ tự trở thành một địa chỉ văn hóa, di tích văn hóa độc đáo của địa phương.
Nguồn http://baoapbac.vn/
0 Bình luận
Hãy là người đầu tiên gửi bình luận.