Kỷ niệm Ngày Âm nhạc Việt Nam (3/9): Nâng cao tính chuyên nghiệp cho nhạc Việt

Trong những năm gần đây, nền âm nhạc Việt Nam có biểu hiện chững lại, thậm chí tụt hậu, có nguy cơ mất đi tính chuyên nghiệp. Bức tranh âm nhạc Việt Nam hiện nay khá ngổn ngang, bề bộn, có nhiều vấn đề phải bàn.

Những thành tựu đáng tự hào

Nhìn toàn cảnh sự phát triển của âm nhạc Việt Nam, có thể thấy sự trưởng thành, phát triển đáng tự hào của đội ngũ những người làm công tác sáng tác, biểu diễn, nghiên cứu, lý luận phê bình và đào tạo âm nhạc. Cách đây vài thập niên, đó là thời kỳ hoàng kim của âm nhạc cách mạng với sự hài hòa, tính tư tưởng cao cùng với tính dân tộc và kinh điển. Sự phát triển của các loại hình âm nhạc như nhạc kịch, giao hưởng, hợp xướng, các loại hình âm nhạc dân tộc cùng với các thể loại âm nhạc khác tạo nên bức tranh âm  nhạc hoành tráng xứng đáng với thời đại. Nhiều tác phẩm lớn đã ra đời trong thời kỳ này, như: Bản giao hưởng “Quê hương” 4 chương của nhạc sĩ-liệt sĩ Hoàng Việt; nhạc kịch “Cô Sao”, “Người tạc tượng” của nhạc sĩ Đỗ Nhuận; tổ khúc giao hưởng “Ông Gióng” viết cho dàn nhạc dân tộc của nhạc sĩ Nguyễn Xuân Khoát; thơ giao hưởng “Đồng khởi” của nhạc sĩ Nguyễn Văn Thương; nhạc kịch “Bên bờ Krông-pa” của nhạc sĩ Nhật Lai; Hợp xướng “Ca ngợi Tổ quốc” của nhạc sĩ Hồ Bắc, “Tiếng hát người chiến sĩ biên thùy” của nhạc sĩ Tô Hải…, cùng với những ca khúc bất hủ của Nguyễn Văn Tý, Hoàng Vân, Huy Du, Nguyễn Đức Toàn, Huy Thục, Doãn Nho… Về nghệ thuật biểu diễn, tiếp nối Tạ Bôn, Bích Ngọc (violon), Nguyễn Hữu Tuấn, Hoàng My (piano), đã có Đặng Thái Sơn (giải nhất Concours Chopin 1980), Tôn Nữ Nguyệt Minh, Đỗ Phượng Như, Bùi Công Duy…, nghệ sĩ biểu diễn đàn dân tộc Mai Phương, Thanh Tâm, Cồ Huy Hùng… Đó là những dấu ấn của nền âm nhạc chuyên nghiệp Việt Nam ở đỉnh cao trong những thập niên cuối thế kỷ XX.
 

Một tiết mục trong chương trình Màu hoa đỏ 2013 do Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam phối hợp
với các cơ quan, đơn vị liên quan tổ chức tối 27/7/2013, tại Nhà hát Âu Cơ, Hà Nội. (Ảnh: Thế Dương)
Bước vào thời kỳ Đổi mới, dòng chảy chính của âm nhạc Việt Nam vẫn là dòng chính thống, gắn bó với dân tộc, ca ngợi cuộc sống lao động, sáng tạo của nhân dân, ôn lại lịch sử hào hùng, ký ức về hai cuộc chiến tranh cách mạng, ca ngợi tình yêu tuổi trẻ. Lĩnh vực sáng tác chủ yếu, cũng là thế mạnh của âm nhạc Việt Nam vẫn là ca khúc, tuy nhiên phong cách sáng tác đã có những biến đổi, tìm tòi thể nghiệm để đưa ra những hình thức nhẹ nhàng, tươi mát hơn và xu hướng chính nhạc nhẹ đã xuất hiện. Một xu hướng mới nổi lên là những bài hát đi vào “đời thường”, không nói về những điều to tát, chung chung mà đi vào thế giới tình cảm, tế nhị giữa con người với con người, đi vào “cái tôi”, đề cập đến những nỗi đau mất mát trong chiến tranh… Trong những năm 90 của thế kỷ XX, những ca khúc do lực lượng nhạc sĩ trẻ sáng tác đã dần đẩy lùi ảnh ảnh hưởng của trào lưu ca khúc hải ngoại với những băng đĩa sản xuất tại nước ngoài dựng lại những bài ca đã bị lãng quên và sáng tác mới mang màu sắc ủy mị, não nề, chán chường, bi lụy, lời ca xuyên tạc, phản động do nhạc sĩ hải ngoại viết.

Trong những năm qua, đường lối âm nhạc của đất nước vẫn ưu tiên cho việc sáng tác khí nhạc, một loại hình khó, có tính quốc tế, cần có trình độ chuyên môn cao, cần có thời gian và công sức đầu tư dài hơi. Các tác phẩm khí nhạc tuy ít về số lượng nhưng vẫn được giới chuyên môn và bạn bè quốc tế đánh giá là có sự độc đáo, mang bản sắc Việt Nam và có trình độ chuyên nghiệp.

Bên cạnh đó, trong sáng tác cho nhạc cụ dân tộc, ngoài việc khôi phục và truyền dạy vốn âm nhạc cổ truyền của cha ông có nguy cơ mai một như: Nhã nhạc cung đình Huế, hát xẩm, hát xoan ghẹo, dân ca dân nhạc các dân tộc thiểu số…, các nhạc sĩ đã sáng tác nhiều tác phẩm mới cho nhạc cụ và dàn nhạc dân tộc. Năm 2009, Nhạc viện Hà Nội (nay là Học viện Âm nhạc quốc gia Việt Nam) thành lập Dàn nhạc Giao hưởng – Dân tộc, đây được đánh giá là một bước tiến mới về mô hình tổ chức và quy mô của âm nhạc dân tộc.

Sự phát triển của âm nhạc Việt Nam trong những năm qua còn thể hiện rõ nét ở lực lượng sáng tác ngày càng lớn mạnh, chuyên nghiệp hơn, đi sâu vào từng lĩnh vực như: nhạc sĩ chuyên viết giao hưởng, chuyên viết nhạc phim, chuyên sử dụng nhạc cụ điện tử… Theo số liệu của Hội Nhạc sĩ Việt Nam, hiện nay có hơn 1.200 nhạc sĩ-nghệ sĩ trong tổ chức Hội, trong số đó có hơn 700 người là nhạc sĩ sáng tác. Đội ngũ nhạc sĩ ở các tỉnh thành đã phát huy được vai trò nòng cốt trong phong trào âm nhạc ở địa phương, góp phần đẩy lùi những sản phẩm âm thanh độc hại, ngoài luồng ngấm ngầm xâm nhập vào đời sống thường ngày của người dân, đặc biệt là lớp trẻ; đồng thời các nhạc sĩ, ca sĩ còn đóng vai trò quan trọng trong các sự kiện văn hóa-chính trị lớn của đất nước.

Nhìn chung, âm nhạc Việt Nam trong những năm Đổi mới vẫn tiếp tục phát huy truyền thống của âm nhạc cách mạng, đưa chất lượng sáng tác lên một cấp độ mới, phong phú hơn, đa dạng hơn, nhiều màu sắc hơn, giữ được tinh hoa của âm nhạc dân tộc đồng thời hình thành một đội ngũ nhạc sĩ trẻ, mạnh dạn thể nghiệm các loại hình âm nhạc mới…
  
Thực trạng ngổn ngang, bề bộn

Tuy đã đạt được nhiều thành tựu, song bức tranh âm nhạc Việt Nam hiện nay khá ngổn ngang, bề bộn, có nhiều vấn đề phải bàn. Dễ nhận thấy nhất là sự phát triển thiếu hài hòa, mất cân đối giữa các loại hình âm nhạc. Chức năng giải trí đang lấn át các chức năng thẩm mỹ, sáng tạo, định hướng… của âm nhạc; dòng âm nhạc chính thống đang ngày càng tỏ ra “yếu thế” so với nhạc thị trường; số lượng tác phẩm âm nhạc tuy nhiều nhưng thiếu những tác phẩm đỉnh cao…

Trong thời kỳ Đổi mới, văn hóa Việt Nam và âm nhạc nói riêng chịu sự ảnh hưởng, tác động mạnh mẽ bởi quy luật của kinh tế thị trường. Tính giáo dục, tính thẩm mỹ, tính định hướng dần bị phai nhạt, nhường chỗ cho văn hóa âm nhạc đại chúng, âm nhạc giải trí mà “ca khúc đại trà” (nhạc pop) lên ngôi, với đề tài chủ yếu về tình yêu nam nữ, nội dung và hình thức nhiều ca khúc xa rời với thuần phong mỹ tục của dân tộc. Các ca khúc pop đã biến thành hàng hóa theo đơn đặt hàng của các hãng băng đĩa nhạc, của các ca sĩ đang “ăn khách” và cả của các doanh nhân, doanh nghiệp bỏ tiền tài trợ. Các phương tiện thông tin đại chúng, các chương trình ca nhạc trên sóng phát thanh, truyền hình, đặc biệt là các báo điện tử, cũng vào cuộc “tôn vinh” thứ hàng hóa ấy, khiến thật giả lẫn lộn. Nhiều nhạc sĩ, ca sĩ tự sáng tác và tự trình bày tác phẩm của mình, ai cũng có thể làm ra bài hát và trở thành “nhạc sĩ”. Điều này chưa hẳn là không tốt, âm nhạc thế giới cũng đã và đang diễn ra xu hướng này. Tuy nhiên, đáng lo ngại là trong số những ca khúc “tự biên tự diễn” ấy có nhiều tác phẩm kém chất lượng, thậm chí bị coi là “thảm họa âm nhạc” nhưng vẫn đến được với công chúng. Khi mọi tiêu chí bị đảo lộn, những “sáng tác” này tự do lên sân khấu, tự do phổ cập vì không được các cơ quan chức năng kiểm soát chặt chẽ, hoặc nếu có “để mắt” tới thì cũng có thể bị mua chuộc. Sự lệch lạc về thẩm mỹ còn được nhân lên trong giới trẻ với các bài hát tự sáng tác, tự biểu diễn lai căng nhạc Hoa, nhạc Hàn, nhạc Nhật… Chưa bao giờ có nhiều “nhạc sĩ”, “ca sĩ” tự phong như bây giờ, trong khi sân khấu nhạc nghiêm túc bị nhiều người hờ hững!

 

Việc duy trì và phát triển các thể loại âm nhạc kinh điển-bác học hiện đang gặp nhiều khó  khăn,

thách thức. (Ảnh: Nguyễn Đình Toán/Báo Lao Động)

Sự phát triển của âm nhạc cách mạng trong những năm trước đây đã đạt được những thành tựu rất lớn, trong đó có các thể loại âm nhạc kinh điển-bác học, song thực trạng hiện nay cho thấy việc duy trì và phát triển các thể loại này đang gặp rất nhiều khó khăn, thách thức. Những năm gần đây, ở nước ta thiếu sự đầu tư cho âm nhạc kinh điển-bác học từ khâu sáng tác, biểu diễn đến tuyên truyền, quảng bá và lưu trữ. Các nhà hát như Nhạc vũ kịch Việt Nam, các dàn nhạc giao hưởng lớn và các trung tâm đào tạo âm nhạc như Học viện Âm nhạc Quốc gia Việt Nam, Nhạc viện Thành phố Hồ Chí Minh… hầu như chỉ biểu diễn các tác phẩm của các tác giả  nước ngoài. Chương trình biểu diễn tại các nhà hát cũng phần lớn do người nước ngoài chỉ huy, vì các chương trình này kêu gọi được tài trợ và cũng vì trong nước đang thiếu trầm trọng những người chỉ huy giỏi. Trên sóng phát thanh, truyền hình, các chương trình nhạc nghiêm túc không được phát sóng trong “giờ vàng” mà thường chỉ được phát vào đêm khuya. Sự “lệch pha” giữa sáng tác và biểu diễn ngày càng xa. Hội Nhạc sĩ Việt Nam được phép đầu tư tác phẩm song kinh phí tài trợ đầu tư quá ít ỏi, tác phẩm viết xong lại không có tiền để dàn dựng, biểu diễn. Cái vòng luẩn quẩn ấy đã diễn ra suốt trong những thập niên vừa qua.

Công tác lý luận, phê bình âm nhạc hiện nay cũng bộc lộ nhiều vấn đề đáng lo ngại. Các nhà lý luận, phê bình vừa thiếu, vừa yếu, vừa bị hụt hẫng thế hệ kế cận. Lực lượng phê bình lớp trước đã không còn sự nhạy bén cần thiết trước đời sống âm nhạc hiện nay, nhường diễn đàn âm nhạc cho các nhà báo không chuyên về âm nhạc tùy thích “thẩm định”, lên tiếng “định vị” cho các giá trị nghệ thuật. Nhiều vụ “đạo nhạc” thô thiển, trắng trợn từ nội dung đến hình thức không có người lên tiếng phê bình và từ đó cái xấu cứ thế lan tràn. Khoảng trống trong lý luận, phê bình có thể sẽ ngày một rộng ra nếu như tiếp tục thiếu vắng vai trò của các nhà lý luận, phê bình, vốn được coi là những người “cầm cân nảy mực” trong nghệ thuật nói chung và âm nhạc nói riêng.

Về đào tạo âm nhạc, hiện đang tồn tại sự bất cập, mất cân đối giữa nhu cầu xã hội và đào tạo âm nhạc, đó là đào tạo không theo nhu cầu xã hội, không theo quy hoạch. Bệnh thành tích phần nào thể hiện trong công tác đào tạo cán bộ âm nhạc sau đại học. Những người có bằng thạc sĩ, tiến sĩ ngày càng đông nhưng chưa làm được gì nhiều để gỡ rối cho nền âm nhạc nước nhà trong bối cảnh mà có người gọi là “loạn nhạc” hiện nay. Cùng với việc đào tạo người sáng tác, người lý luận, người biểu diễn thì việc “đào tạo người nghe” cũng rất quan trọng. Tuy nhiên, hiện nay các cơ sở đào tạo chính quy về âm nhạc chưa vào cuộc để làm công việc này, chủ yếu phụ thuộc vào một số tiết học ít ỏi về âm nhạc trong các trường phổ thông. Một lần nữa câu chuyện Bá Nha – Tử Kỳ lại được nêu ra, khi nói về mối quan hệ giữa những người sáng tạo nghệ thuật và những người thưởng thức nghệ thuật.

 

Bản quyền âm nhạc cũng là một vấn đề đang nóng bỏng hiện nay. Các tác phẩm âm nhạc có số lượng rất lớn và được sử dụng rộng rãi trong đời sống xã hội, tuy nhiên việc thi hành các quy định của pháp luật về tác quyền trong lĩnh vực âm nhạc còn nhiều bất cập, vướng mắc. Quyền lợi chính đáng của các tác giả âm nhạc bị xâm phạm nghiêm trọng, khi rất nhiều cá nhân, tổ chức chưa thực hiện nghĩa vụ xin phép, trả tiền cho chủ sở hữu. Không ít sản phẩm ghi âm, ghi hình bị ăn cắp ngay từ khi xuất xưởng, gây thiệt hại cho nhà sản xuất và tác giả. Việc biểu diễn, sử dụng âm nhạc trong các dịch vụ công cộng như khách sạn, nhà hàng, karaoke và các dịch vụ truyền thông như nhạc trên điện thoại, nhạc trên mạng chưa có giải pháp quản lý thực sự hiệu quả để đảm bảo quyền lợi của giới âm nhạc.

“Cần có một bộ luật về âm nhạc”

Trao đổi với chúng tôi về những vấn đề của âm nhạc Việt Nam hiện nay nhân kỷ niệm Ngày Âm nhạc Việt Nam lần thứ IV (3/9/2013), nhạc sĩ Đỗ Hồng Quân, Chủ tịch Hội Nhạc sĩ Việt Nam, bày tỏ nhiều băn khoăn, trăn trở trước thực trạng nền âm nhạc nước nhà. Đó là sự mất cân đối giữa các loại hình âm nhạc; sự yếu kém trong công tác lý luận, phê bình và đào tạo âm nhạc; sự lộn xộn, thiếu định hướng trong hoạt động âm nhạc và những bức xúc trong bản quyền tác giả âm nhạc… Ông nói: “Nếu chỉ có ca khúc và chỉ là ca khúc thịnh hành (nhạc pop) thôi, thì nền âm nhạc của dân tộc làm sao có thể coi là gia tài văn hóa để truyền lại cho mai sau và đưa ra với bạn bè thế giới? Nói như thế không có nghĩa là chúng ta đánh giá thấp vai trò của ca khúc. Bởi chính nền âm nhạc cách mạng Việt Nam được xây dựng nên từ những bài ca cách mạng, những bài ca đi cùng năm tháng. Nhưng trong thời đại mới, một nền âm nhạc tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc nếu chỉ có một thể loại ca khúc thì chưa đủ. Hơn thế nữa, nếu quá nghiêng về ca khúc “đại trà” (ca khúc thịnh hành) mà ta quen gọi là “nhạc trẻ”, thì lại càng là lệch lạc lớn!”.

 

 

Một buổi sinh hoạt thường kỳ của Chi bộ Hội Nhạc sĩ Việt Nam. (Ảnh: Thành Tâm)

Nhạc sĩ Đỗ Hồng Quân cho biết: “Đối với những mặt còn hạn chế, yếu kém của hoạt động âm nhạc trong thời gian gần đây, Hội Nhạc sĩ Việt Nam với tư cách là tổ chức chính trị, xã hội, nghề nghiệp đã nhiều lần lên tiếng và đề xuất một số giải pháp, nhưng vì không phải là cơ quan quản lý nhà nước nên hiệu quả rất thấp. Nghị quyết Trung ương 5 (khóa XIII) về xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc và Nghị quyết 23 của Bộ Chính trị về tiếp tục xây dựng và phát triển văn học, nghệ thuật trong thời kỳ mới là chỗ dựa vững chắc để chúng ta chấn chỉnh những thiếu sót, lệch lạc vừa qua. Tuy nhiên, để công việc này đạt hiệu quả, cần có những giải pháp và chính sách cụ thể…”.

Theo nhạc sĩ Đỗ Hồng Quân, thực trạng âm nhạc Việt Nam hiện nay cho thấy rất cần thiết phải có chiến lược âm nhạc quốc gia. Nếu như trong lĩnh vực điện ảnh đã có Luật Điện ảnh thì trong lĩnh vực âm nhạc cũng cần có Luật Âm nhạc để tạo hành lang pháp lý cho hoạt động âm nhạc. Đồng thời, cần nâng cao vai trò, trách nhiệm của những người làm nghề, vì họ là những người có trình độ chuyên môn, có khả năng thẩm định tốt nhất các tác phẩm trước khi được phổ biến rộng rãi.

Âm nhạc có vị trí và vai trò hết sức quan trọng trong đời sống xã hội. Không đơn thuần chỉ để giải trí, âm nhạc còn có khả năng nâng cao nhận thức, trình độ thẩm mỹ, góp phần hình thành và phát triển nhân cách con người. Lịch sử đấu tranh cách mạng của nhân dân ta đã cho thấy âm nhạc còn là một vũ khí sắc bén và đã từng thể hiện sức mạnh to lớn, góp phần quan trọng vào thắng lợi vẻ vang của toàn dân tộc trong công cuộc giải phóng, bảo vệ và dựng xây đất nước. Không chỉ là ngày hội tôn vinh âm nhạc, kỷ niệm Ngày Âm nhạc Việt Nam còn là dịp để mỗi chúng ta cùng nhìn lại những thành tựu của âm nhạc nước nhà, nhận rõ những hạn chế, yếu kém; động viên các văn nghệ sĩ phát huy các giá trị truyền thống và cách mạng của âm nhạc Việt Nam, phấn đấu có nhiều tác phẩm hay, nhiều hoạt động âm nhạc có ý nghĩa, góp phần tạo nên đời sống tinh thần phong phú, lành mạnh, giáo dục thế hệ trẻ, cổ vũ, động viên toàn dân đoàn kết, tiếp tục phấn đấu cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc./.